Nội dung bài viết:
Tặng cho đất đai là sự thỏa thuận của các bên, theo đó bên tặng cho chuyển giao quyền sử dụng đất của mình cùng diện tích thửa đất cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù.
Trên thực tế, việc tặng cho quyền sử dụng đất xảy ra dưới 02 dạng phổ biến:
– Bố mẹ tặng cho đất cho con;
– Người có đất đai tặng cho đất của mình cho người khác (không phải là bố mẹ cho đất cho con).
Hiện nay, khi nhận tặng cho là quyền sử dụng đất nhưng không làm thủ tục sang tên thì dẫn tới tình trạng: Đất là của bố mẹ, nhà là của con. Trong trường hợp này dễ xảy ra tranh chấp.
Ví dụ: Khi vợ chồng người con ly hôn mà chia tài sản thì bố mẹ vì nhiều lý do khác nhau cho rằng đất đó là cho “mượn” để xây nhà chứ không phải “tặng cho” nên thửa đất đó không được chia và muốn lấy lại.
Để tránh những rủi ro như trên dù là được bố mẹ tặng cho quyền sử dụng thì cũng nên làm thủ tục sang tên (pháp luật quy định là thủ tục đăng ký biến động đất đai khi tặng cho quyền sử dụng đất).
Theo quy định của pháp luật hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất giữa các bên đã có hiệu lực, bên nhận tặng cho đã hoàn thành thủ tục đăng ký sang tên theo quy định (được đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) thì bên tặng cho không có quyền đòi lại quyền sử dụng mảnh đất đó.
Căn cứ vào quy định này nếu như bố bạn lập hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất có điều kiện như nếu con trai bất hiếu với bố, bố có quyền đòi lại tài sản đã tặng cho thì mới đòi lại được mảnh đất đó.
Trường hợp 1: Người nhận thừa kế mà tài sản là quyền sử dụng đất nhưng là người nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài không thuộc đối tượng mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất thì không được cấp giấy chứng nhận nhưng được quyền tặng cho.
Trường hợp 2: Theo khoản 1 Điều 168 Luật Đất đai 2013 được quyền tặng cho đất đai khi:
+ Trường hợp chuyển đổi quyền sử dụng đất nông nghiệp thì người sử dụng đất được quyền tặng cho đất sau khi có quyết định giao đất, cho thuê đất;
+ Trường hợp nhận thừa kế quyền sử dụng đất thì người sử dụng đất được thực hiện quyền tặng cho khi có điều kiện để cấp giấy chứng nhận (chưa cần có giấy chứng nhận).
Như vậy, trong trường hợp của bác, bác chỉ có thể đòi lại mảnh đất đó nếu như đó là hợp đồng tặng cho có điều kiện và người con trai bác vi phạm điều kiện đó thì mới đòi lại được.